Dù đã ra mắt được hơn một thập kỷ, tác phẩm Tokyo Sonata (tạm dịch: Bản Giao Hưởng Tokyo) vào năm 2008 của đạo diễn Kiyoshi Kurosawa vẫn không hề mang một dấu hiệu cũ kỹ trong câu chuyện mà nó muốn truyền tải. Kurosawa đã khéo léo lồng ghép những vấn đề xã hội nhức nhối và vẽ nên một bức tranh vô cùng chân thực về xứ sở hoa anh đào của thời hiện đại.
Thông tin về phim Tokyo Sonata
- Đạo diễn: Kiyoshi Kurosawa
- Diễn viên: Teruyuki Kagawa, Kyoko Koizumi, Yû Koyanagi, Kai Inowaki,…
- Năm sản xuất: 2008
- Thể loại: Tâm lý, drama chính kịch,…
- Giới hạn độ tuổi: PG-13
- Quốc gia: Nhật Bản
- Thời lượng: 120 phút
- Điểm IMDb: 7.5/10
của phim Tokyo Sonata
Bộ phim xoay quanh câu chuyện về các thành viên của một gia đình trung lưu Nhật sau khi người cha, đồng thời là trụ cột chính của gia đình, bị sa thải và phải chật vật tìm công việc mới. Bấy giờ, bi kịch thời đại, những vụn vỡ và cả ánh sáng le lói cuối đường hầm,…dần được khắc họa rõ ràng. Câu chuyện xoay quanh gia đình nhỏ nhà Sasaki đã phần nào phơi bày hiện thực xã hội Nhật Bản bấy giờ đồng thời thể hiện mơ ước và hy vọng về một tương lai tươi sáng ở phía trước…
Trailer phim Tokyo Sonata
Kiyoshi Kurosawa – Khi kinh dị đến từ địa hạt của bản chất con người
Có thể nhiều bạn sẽ thắc mắc liệu Kiyoshi Kurosawa và bậc thầy Akira Kurosawa phải là người thân của nhau không thì câu trả lời là 2 vị đạo diễn trên thực chất không có mối liên hệ nào. Kiyoshi Kurosawa, cùng với Takeshi Kitano, Takashi Miike, Sino Sono là những tên tuổi nổi bật trong làn sóng điện ảnh đương đại của Nhật Bản. Ông được biết tới qua những tác phẩm mang đậm chất kinh dị – giật gân như Cure (1997), Pulse (2001), Creepy (2016)…
Tuy nhiên, yếu tố kinh dị trong các bộ phim của Kurosawa không nhuốm màu của những cú jumpscare lộ liễu hay những con quái vật với hình thù kỳ quái mà lại nằm ở chính những khoảnh khắc đời thường nhất. Ông tập trung khám phá và phơi bày nỗi sợ hãi dấy lên khi mỗi con người trong chúng ta phải đối mặt với những biến cố và thách thức trong cuộc sống.
Nhật Bản và bong bóng kinh tế
Tại Nhật Bản, nền kinh tế bong bóng kéo dài trong khoảng 4 năm, xảy ra vào cuối những năm 80 và kết thúc vào khoảng đầu những năm 90. Đây là một khái niệm chỉ hiện tượng kinh tế bị tăng trưởng một cách đột ngột, bắt nguồn từ sự nhảy vọt về giá cổ phiếu cũng như nhà đất. Điều này đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động sản xuất và chi tiêu của người dân xứ mặt trời mọc. Vật chất đóng vai trò quan trọng và có sức nặng hơn trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, hậu quả để lại đã trở nên nghiêm trọng vượt ngoài sức tưởng tượng khi bong bóng vỡ tan.
Đỉnh điểm là chính phủ Nhật Bản đã bắt đầu can thiệp mạnh hơn bằng cách thắt chặt hệ thống cho vay tài chính và áp dụng chế độ lãi suất cao. Doanh nghiệp do đó phải xoay sở, tìm cách đối phó với các khoản nợ, và cắt giảm nhân lực không phanh. Các gia đình cũng bớt tiêu xài cho vật chất hơn so với trước đó. Thất nghiệp tràn lan. Vì vậy, thế hệ những người trẻ mới tốt nghiệp đại học vào thời điểm này còn phải chật vật với hành trình tìm kiếm việc làm.
Thuật ngữ “Lost Generation” từ đó đã ra đời để chỉ thế hệ này. Có thể hiểu “Lost” ở đây theo hai góc nhìn, bao gồm “mất mát” cũng như “lạc lối”. Sự mất mát đến từ việc thế hệ những người trẻ trên bị tước đi cơ hội được đón nhận một cuộc sống đầy đủ cũng như ổn định so với những người thuộc thế hệ trước họ. Nhiều thanh niên thậm chí phải sống dựa vào gia đình rất nhiều do thiếu tự chủ tài chính. Thế nên không khó hiểu khi họ cảm thấy chênh vênh và mất định hướng, bởi không biết phải đối diện với cú nổ bong bóng kinh tế ra sao.
Câu chuyện gia đình hay hiện thực khốc liệt của cả một đất nước?
Có lẽ không khó để khán giả nhận ra ý đồ của Kiyoshi Kurosawa trong việc xây dựng cốt truyện thông qua tựa đề bộ phim, hay chính tựa đề này nói lên điều gì. Với Tokyo Sonata, ông đã ngầm lấy câu chuyện cá nhân (cụ thể là một gia đình trung lưu tại thủ đô Tokyo của Nhật Bản) để phản ánh một vấn đề vĩ mô hơn. Đó chính là sự khủng hoảng kinh tế đang bao trùm đất nước mặt trời mọc thời kỳ hậu bong bóng.
Không khác xa các gia đình khác trên đất nước Nhật Bản là mấy, gia đình Sasaki cũng phải gánh chịu và trải qua những bấp bênh về cuộc sống. Người cha là Ryuhei Sasaki (Teruyuki Kagawa thủ vai) phải chấp nhận một thực tại rằng mình – trụ cột của gia đình đã thất nghiệp. Thật vậy, Kiyoshi Kurosawa tài tình trong việc dùng ngôn ngữ điện ảnh để thay lời nói hộ câu chuyện của tầng lớp trung lưu.
Tuy câu chuyện của gia đình Sasaki không thể phản ánh đầy đủ câu chuyện của giai cấp thấp hơn hoặc toàn bộ Nhật Bản, do tùy vào mức độ nặng nề mà hậu quả bong bóng để lại, ta vẫn cảm nhận được hiện thực khốc liệt đang càn quét đất nước này ngày ấy.
Cái nhìn về giới trong xã hội
Như đã đề cập ở trên, nỗi sợ có thể hiện hữu ở bất cứ đâu xung quanh ta. Xét riêng trường hợp của Tokyo Sonata, nhìn vào hình ảnh người cha, đó là nỗi bất an về việc mất đi cái tôi và sự bấp bênh trong quyền lực giới mà xã hội Nhật Bản từ lâu đã áp chặt lên tư tưởng mỗi cá nhân.
Ryuhei liên tục lảng tránh vợ con về vấn đề mất việc bởi nó sẽ trực tiếp tác động lên vị thế của anh trong căn nhà. Quyền lực và tiếng nói được gây dựng qua bao năm tháng sẽ sụp đổ ngay tức khắc nếu sự thật bị bại lộ. Bên cạnh đó, người bạn của Ryuhei thậm chí chẳng ngần ngại đóng vai một người đàn ông thành đạt và không ngừng nói dối gia đình rằng mình rất bận rộn với công việc, trong khi thực tế lại trái ngược hoàn toàn.
Song song với hình ảnh người chồng, chế độ phụ hệ cũng được khắc họa rõ nét ngay ở hình ảnh một người phụ nữ dễ quy phục và nhẫn nhịn thông qua nhân vật người vợ là Megumi (Koizumi Kyoko thủ vai). Megumi nỗ lực hoàn thành mọi việc nữ công gia chánh để gia đình được chăm sóc một cách tốt nhất. Tuy vậy, Megumi xứng đáng được đón nhận nhiều hơn từ thế giới xung quanh.
Ta cảm thấy sự bất lực khi cô khao khát sự chia sẻ chân thành từ người chồng, nhưng tất cả nhận được chỉ là những cơn giận loé lên bất chợt hoặc sự khép chặt mình lại. Cả Megumi và Ryuhei về cơ bản đều là nạn nhân của những tư tưởng độc hại được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là một vòng lặp bi kịch không có hồi kết.
Thoát khỏi vỏ bọc an toàn
Chúng ta thường được nhắc nhở rằng cách duy nhất để vượt qua nỗi sợ là bước ra khỏi vùng an toàn. Cảm giác bức bối và mệt mỏi sẽ chỉ ngày càng tăng lên nếu ta tiếp tục trốn tránh nó. Những tiêu cực có thể sẽ không bao giờ vơi đi nhưng mỗi người đều có quyền lựa chọn.
Kenji – người nhỏ tuổi nhất gia đình Sasaki đã dũng cảm làm được điều này. Ngay từ những phút đầu của bộ phim, ta đã nhìn thấy cậu bé Kenji mới lớn với một tính cách ngang ngạnh và khá bướng bỉnh. Cậu không ngần ngại đứng trước lớp để bảo vệ chính kiến của bản thân. Ngoài ra, dù bị bố ngăn cản kịch liệt, Kenji vẫn đam mê chơi đàn và chạy theo tiếng gọi của âm nhạc đến cùng.
Cũng như bao người khác, Kenji chắc chắn có nỗi sợ của riêng mình. Tuy vậy, cậu vẫn từng bước, từng bước một thoát khỏi lớp kén. Mặc dù hành trình phát triển của nhân vật Kenji không phải là từ một con số không tròn trĩnh thành ngôi sao vụt sáng duy nhất trên bầu trời. Nó là hành trình chân thực nhất về sự kiên định trong từng bước đi và suy nghĩ mà mỗi người có thể sẽ trải qua.
Trái ngược với Kenji, người anh là Takashi Sasaki (Koyanagi Yu thủ vai), hết mình đuổi theo lý tưởng bảo vệ gia đình bằng cách gia nhập quân đội Mỹ. Mặc cho sự cấm đoán của người cha, Takashi cũng cứng đầu không kém gì Kenji, nhưng động lực cho hành động của cậu thuộc về bên ngoài hơn là mang tính nội tại. Liệu đây có phải cái cớ để chàng trai của Thế hệ lạc lối hoặc mất mát kia né tránh cái viễn cảnh ảm đạm của thị trường việc làm? Hay sự cao cả trong hành động khiến cậu có cảm giác thỏa mãn và thấy mình tốt đẹp hơn phần nào?
Âm nhạc cùng Kenji đi qua các sự kiện xuyên suốt bộ phim. Có thể nói, yếu tố âm nhạc này đã phần nào đó kéo người xem tạm thời sang một khoảng không gian khác, như thổi một làn gió tươi mát vào không khí bí bách và ngột ngạt mà các thành viên trong gia đình Sasaki đang mắc kẹt bên trong.
Ánh trăng của niềm tin và hy vọng
Ở phân đoạn xuất sắc cuối phim, khi những nốt đầu tiên của bản nhạc Clair de Lune bất hủ đến từ nhà soạn nhạc Claude Debussy vang lên dưới bàn tay của cậu bé Kenji, cả khán phòng với những âm thanh sột soạt của bàn ghế, tiếng bước chân lạch cạch trên sàn gỗ trong phút chốc bỗng hóa lặng thinh như tờ.
Clair de Lune dường như là hiện thân của một khoảnh khắc với thứ ánh sáng diệu kỳ. Đó không chỉ là ánh sáng của mặt trăng, mà còn là của niềm tin và sự lạc quan về một tương lai tươi đẹp hơn. Dù âm nhạc có thể chỉ kéo dài trong giây lát nhưng cũng đã đủ để gột rửa đi phần nào và cuốn trôi dần những tàn dư, vụn vỡ mà thăng trầm trong cuộc đời để lại.
Nếu nhìn xa hơn thì thứ ánh sáng đó còn chiếu rọi cả đất nước Nhật Bản và trao gửi niềm hy vọng sau một thời kỳ đầy đen tối. Đặc biệt khi người chơi đàn là Kenji, cậu bé như tượng trưng cho sự nảy mầm của thế hệ mới. Phải chăng vòng lặp trái ngang kia sẽ kết thúc vào một ngày nào đó không xa?
Từ lựa chọn âm nhạc cho tới cách kể chuyện, ta có thể cảm nhận được hình ảnh nhà ảo thuật Kiyoshi Kurosawa tài ba với tấm màn phủ lên một nỗi buồn man mác mà không hề cố gắng lên gân nhằm tác động đến cảm xúc khán giả. Vẻ đẹp của sự cân bằng hiện hữu khi tia hy vọng lóe lên cùng với giai điệu thơ mộng của Clair de Lune. Để rồi kết thúc phim là cái xoa đầu trìu mến của người cha và ánh nhìn chan chứa tình yêu thương từ người mẹ. Không cần sự tung hô hoặc đón nhận ồn ào từ những người xa lạ, đối với Kenji, chỉ thế thôi ắt hẳn là quá đủ rồi.
Vậy còn cảm nghĩ của bạn về Lost in Translation như thế nào? Hãy chia sẻ cho BlogAnChoi biết nhé!
Ngoài ra những bài viết khác cùng chủ đề bạn có thể quan tâm như:
- Review Lost in Translation: Đi tìm chính mình trong nỗi cô đơn
- Top 8 bộ phim phản địa đàng hay nhất mọi thời đại
- 10 phim trinh thám Nhật Bản chuyển thể từ tiểu thuyết hay, hấp dẫn nhất
- 7 series phim Nhật Bản hay trên Netflix không phí tiền xem
Và đừng quên theo dõi BlogAnChoi để cập nhật thêm nhiều thông tin thú vị khác!